Thứ Sáu, 25 tháng 11, 2011

Ngày tận thế - đã được báo trước cho ông cha ta

Sau đây là một bài Cơ BÚt giáng Trần của Một Vị đại Tiên tên Hông Quang .
Nói về ngày Tận thế , và tương lại tươi sáng của Nam - Nước Việt .

Cơ Bút là một hình thức dẫn Kênh thông tin từ một cảnh giới cao (hay 1 nền văn minh cao ) hơn nhân loại .Kênh thông tin dc truyền xuống cho 1 nhóm người với mục đích giáo dục và Tiên tri báo trước sự việc .Trong rẩt nhiều bào cơ bút , Samba chọn lọc ra chỉ dc mấy bài có dộ tin cậy cao . Xin đưa lên đây , Hầu chuyện các Sư huynh Sư Tỷ 

NGÀY CUỐI CÙNG

Thương nhơn-loại đã kề miệng hố.
Động lòng đây tiết-lộ ít hàng.
Để cho bá-tánh biết đàng.
Tránh cơn biến-chuyển muôn ngàn khổ đau.

Cơ tận-diệt có đâu tránh khỏi.
Phật Thánh Tiên các cõi xuống trần.
Lịnh truyền bố-trí xa gần.
Lập phương cứu-thế, khắp miền Đông-Tây.

Cuộc Đại-Tạo âm-dương biến-chuyển.
Do cơ-đồ phát-triển canh-tân.
Cõi trên cõi dưới đổi dần.
Vô-hình định-đoạt, Hữu hình hiện y.
Muốn đổi mới cái gì có sẵn.
Phải san-bằng cho sạch cũ đi.
Là cho đúng lúc kịp thì.
Đó là định-luật chuyển-di tuần-hườn.

Cuối Ngươn-Hạ, máy huyền phát-động.
Khắp địa-cầu đâu đặng còn nguyên.
Bao nhiêu những chuyện kinh Thiên.
Tang-điền biến-hải, đảo-điên muôn loài.

Lắm sanh-chung đang còn mơ-mộng.
Tin chắc rằng:đời sống văn-minh.
Của nền khoa-học hiện-tiền.
Là đà chiến-thắng thiên-nhiên của người.

Đâu có biết cơ Trời lại khác.
Trao cho người khí-giới diệt-vong.
Để người tự giết cho đông.
Đỡ cho Thần- hánh nhọc công ngày cùng.

Nguyên-tử-lực tân-kỳ khoa-học.
Một phát-minh cao cả của người.
Là con rắn độc hai đầu.
Nắm đuôi cũng khổ, nắm đầu cũng nguy.

Khoa-học biết: ngoài da, nhánh lá.
Đạo học thông: nguồn-gốc vạn loài.
Biết da, dốt gốc: phàm nhơn.
Biết da, thông gốc: phi-nhơn siêu phàm.

Thời Âm trước, cực hung cực ác.
Trận thứ ba hồn xác khó tồn.
Chia ra hai mối tranh hùng.
Văn-minh vật-chất đến ngày cáo chung.
Nền trật tự Hóa-Công đã sắp.
Mà con người muôn lấn sang ranh.
Vệ-tinh hỏa-tiễn phóng nhanh.
Ra ngoài biên-giới hành-tinh của mình.

Làm rối-loạn quân-bình vũ-trụ.
Hãnh-diện rằng: chinh-phục không-gian.
Đâu ngờ phản-ứng giây chuyền.
Rồi đây hạ-giới chịu nhiều họa lây.

Lẽ tiến-hóa ai đâu chẳng muốn.
Nhưng phải cùng định-luật thiên-nhiên.
Thông-minh trí-thức làm liều.
Là cơ phản tiến tiêu-điều trần-gian.

Cơ-khí-hóa muốn bằng tạo-hóa.
Trớ-trêu thay châu-chấu chống xe.
Sức người mà lại muốn khoe.
Sánh cùng Thiên-địa, Mẹ Cha muôn loài.

Muốn như vậy phải lo tu-tập.
Đạt đủ huyền, đủ lực thần-thông.
Được cùng Trời Đất hòa-đồng.
Góp phần tân-tạo lập-công hội nầy.

Rồi sẽ thấy huyền-năng tạo-hóa.
Triệu ức lần hơn cả sức người.
Tạo Trời lập Đất muôn loài.
Sanh ra vũ-trụ chẳng cần máy chi.

Đảo-lộn hết không gì ngăn-nổi.
Tạo lại liền chẳng nhọc công-lao.
Toàn-chân, thiện-mỹ, ly-hào.
Phật Trời Tiên Thánh xem vào ngẩn ngơ.

Thượng, Trung, Hạ bắt đầu thay đổi.
Từ đất trời, tinh-tú, loài người.
Cỏ cây, cầm thú, núi Sông.
Nắng mưa, thời-tiết, đâu còn như xưa.

Quyền Tạo-hóa, chơn-âm nắm giữ.
Đến kỳ ba lập lại ngươn tân.
Đà-Hoa Thiên-Mạng giáng trần.
Miền Nam nước Việt trung-ương địa-cầu.

Tây-phương đến, Thánh Tiên cung kính.
Đợi lịnh truyền sứ-mệnh hành y.
Tiên-thiên rồi đến hậu-thiên.
Hiền-tài sĩ-tử khắp miền lập công.

Huyền-lực hóa vô biên khó tả.
Xưa Nữ-Oa luyện đá vá Trời.
Đà-Hoa vá đất hiện thời.
Chỉnh luôn tam cõi mà đời chưa hay.

Bầu thái-cực, hóa-sanh vạn-hữu.
Cũng là nguồn dưỡng-dục muôn loài.
Âm-dương tiêu-trưởng vận-hành.
Ngũ-hành Tứ-tượng Hà-đồ Lạc-thơ.

Đất Nam-Việt Trung-Ương Mồ-Kỷ.
Nơi tập-trung xuất-phát huyền-năng.
Kỳ ba nắm hết chuẩn-thằng.
Bảy-hai ba-sáu, tùy tùng tại đây.

Chốn linh-địa, trổ-sanh nhơn-kiệt.
Để sau này phát-triển hậu lai.
Thông minh trí-thức thời nay.
Nhiễm sâu tư-tưởng ngoại-lai khó xài.

Người đạo-đức chân tài minh-triết.
Đủ nghĩa-nhân, hạnh nết vị-tha.
Tước quyền, danh-lợi chẳng màng.
Quên mình để giúp vạn dân muôn loài.

Đời mạt-pháp sanh nhiều quỷ-quái.
Tuy hình người trông lại yêu ma.
Còn nguyên thú-tính ngụy tà.
Đại-gian, đại-ác, điêu-ngoa khôn lường.

Cao địa-vị buôn dân bán nước.
Nhỏ quyền-hành mưu-chước lưu-manh.
Hai bên cấu-kết tung-hoành.
Trên đe dưới búa dân lành khổ đau.

Càng rối-loạn chúng càng vơ-vét.
Bọn con buôn bóc-lột tận cùng.
Giàu sang một sớm một chiều.
Mua quyền bán tước lên ngồi chỗ cao.

Phường bất-chánh tranh nhau trị nước.
Thì làm sao nước thịnh dân hùng.
Chạy theo cầu-khẩn liệt-cường.
Chở-che củng-cố uy-quyền bất-lương.

Ai chống-đối cho rằng phản-loạn.
Bắt tù-đày đánh-đập thủ-tiêu.
Muốn yên thì phải điếc đui.
Câm mồn sống nhục, mặc ai tung-hoành.

Một dân-tộc kiêu-hùng oanh-liệt.
Mà lẽ nào chẳng biết phục-sinh.
Khuyên người ẩn-nhẫn qua truông.
Hết cơn đen tối, đến ngày quang-vinh.

Muốn dọn đất phải làm sạch cỏ.
Hễ phá rừng, sâu bọ chết tiêu.
Đến mùa ruộng-rẫy xanh tươi.
Thâu nhiều huê lợi, người người hưởng chung.

Hãy trở lại gốc nguồn dân-tộc.
Lo phá-điền, dọn đất chờ mùa.
Đợi Thầy Thập-tự giáng-trần.
Đem nhiều giống quý lưu-truyền đời sau.

Không dùng đến binh-hùng tướng mạnh.
Cũng chẳng cần cơ-khí tối-tân.
Một mình vận-chuyển âm-dương.
Thắng binh, thắng tướng, thắng khoa-học đời.

Mượn hình-thức đá cây đất nước.
Vận huyền-vi trừ-khử trược-âm.
Một bầu vũ-trụ bao-hàm.
Nằm nhà điều-khiển khỏi cần đi đâu.

Lo lập lại cơ-đồ nước Việt.
Sửa bàn cờ bốn biển năm-châu.
Trong tay nắm đủ Pháp mầu.
Địa-hình địa-vật khắp miền đổi thay.

Đuôi Tây-Tạng đầu về Nam-Việt.
Miệng Cửu-Llong ngậm biển Đại-Thanh.
Huyệt-linh kết-tụ khí-huyền.
Chờ giờ sấm nổ chuyển mình thị oai.

Cuộc địa-chấn xảy ra rùng-rợn.
Từ Nam-Quan đến mũi Cà-Mau.
Núi sông đất sụp ầm-ầm.
Nước trào, lửa dậy, đá bay mịt mù.

Vùng Bảy-Núi chẳng còn nguyên vẹn.
Trừ vài nơi, các chỗ đều thay.
Cù-lao, rừng biển, thị-thành.
Chỗ trồi, chỗ xụp, âm-thanh rợn người.

Nhiều ranh-giới quốc-gia thay đổi.
Các liệt-cường chịu khổ nhiều hơn.
Đó đền tội ác bao thời.
Đòn cân công-lý Đất Trời nào sai.

Nước Việt mới, kinh-đô dời chỗ.
Về Hậu-Giang bờ biển phía Tây.
Tàu bè lui tới đông đầy.
Đền-đài cung-điện, kỳ-quan tuyệt-vời.

Nước thơm ngọt, trị lành các bịnh.
Tháp chín từng mầu-nhiệm vô cùng.
Lên trời xuống biển có đường.
Cây đờn chim hát gió nồng mùi hoa.

Khắp các nước đổ-xô nhau đến.
Để dò xem huyền-diệu tân-kỳ.
Thấy rằng thế-giới không bì.
Tinh-thần vật-chất, cực kỳ siêu-linh.

Đến chừng đó, mới xin thọ-giáo.
Tôn làm thầy học đạo học đời.
Sau về truyền-bá khắp nơi.
Văn-minh tuyệt-đỉnh của thời Thượng-ngươn.

Sẵn vàng-bạc ngọc-ngà châu-báu.
Thêm các hầm có mỏ lộ-thiên.
Giúp cho thập-bát còn tồn.
Đủ phương kiến-quốc sống ngươn thanh-bình.

Có điềm trước, báo ngày tận-thế.
Trên bầu trời đổi sắc xám đen.
Mây giăng lơ-lửng ưu-sầu.
Mùi hôi nồng-nực xông lên ngất trời.

Làm cầm-thú chay hoang sợ-hãi.
Dưới biển, sông cá nổi như bèo.
Tự-nhiên cây ngả khắp cùng.
Không-trung lửa dậy, nước thì rút khô.

Ba tiếng sấm rung-rinh tam-cõi.
Kế ngũ-lôi chuyển nổ kinh-hồn.
Tuần-hườn ngưng hẳn vận-hành.
Thâu-hồi nhựt-nguyệt ngũ-hành còn đâu.

Tối như mực ngày đêm năm bữa.
Không trời trăng, nóng lạnh gió tiêu.
Muôn loài bất tỉnh đê-mê.
Lọc-lừa số ít, để dành ngươn sau.

Dưới thủy-quái trồi lên chực sẵn.
Trên thú rừng biến-hóa thần-thông.
Xông ra giết hại loài người.
Cướp hồn cướp xác, nhiễu-nhương khắp cùng.

Trước ngày đó, nhập trong dân chúng.
Bọn bàng-môn tả-đạo tung-hoành.
Xuống-lên ợ ngáp diễn-tuồng.
Dụng bùa, dụng ngãi, pháp phù, giết nhau.

Các đảng-phái cũng ra múa-rối.
Xưng rằng đây, mới đủ khôn-lanh.
Chống nhau để nắm quyền-hành.
Làm cho xáo-trộn các ngành quốc-gia.

Còn tôn-giáo thiên về sắc-tướng.
Bị qua phần theo hưởng lợi danh.
Tín-đồ chia-rẽ phân-tranh.
Tranh-quyền lãnh-đạo, rồi cùng hại nhau.

Dân khốn-khổ, chay theo vật-chất.
Chỉ lo tiền, chẳng thiết nghĩa-nhân.
Trên đe, dưới búa, dập bầm.
Sống trong áp-bức, lầm-than, cực-cùng.

Thiên-tai đến, tháp-tcùng địa-ách.
Khắp hoàn-cầu hoạn-nạn đủ bề.
Binh-đao khói lửa mịt-mù.
Thêm nhiều bịnh lạ, giết người phút giây.

Thời âm cực, là thời đại-loạn.
Cảnh máu đào chết-chóc thê-lương.
Đâu đâu nước mắt đau-thương.
Gia-đình tiêu-tán, ruộng vườn hoang-vu.

Cơ dĩ định, chỉ còn có một.
Luật tuần-hườn thay-đổi ngươn-kỳ.
Muôn loài phải chịu phân-ly.
Để rồi tiến-hóa thêm nhiều hơn xưa.

Có tận-thế có cơ cứu-thế.
Vì lòng từ các đấng thiêng-liêng.
Cùng nhau xuống tận hạ miền.
Đồng tâm hiệp lực cứu nguy muôn loài.

Vì nhiệm-vụ, lìa ngôi cung-thượng.
Đà-La-Hoa Thiên-mạng hiện-thân.
Chơn-âm ra lịnh ân-cần.
Phật Trời Tiên Thánh cứu thêm vài phần.

Các giáo-chủ hội về đầy-đủ.
Để xin cùng Phật-Mẫu lãnh-công.
Trước lo trật-tự giáo-môn.
Sau cùng các đấng lập-phương cứu-đời.

Tiên-thiên đến hậu-thiên tiếp sức.
Các linh-căn có xác dưới trần.
Đều ra trình diện Mẫu-Nghi.
Để lo cứu nước, cứu dân hội này.

Giờ cứu-thế thật là huyền-diệu.
Mùi hoa thơm, Mẫu rưới khắp miền.
Tiếng đờn nhạc trỗi triền-miên.
Chuông ngân trầm bổng, ru hồn vạn-linh.

Phật Tiên Thánh đi trên thây chết.
Dụng pháp mầu chọn-lọc xác-hồn.
Lựa người, lựa vật, được tồn.
Mùi hoa cho ngửi, chuông đờn cho nghe.

Lần-lần tỉnh giấc mơ mới biết.
Mình hiện đang sống cõi xa-xăm.
Lạ quê, lạ cảnh, lạ người.
Gia-đình quyến-thuộc, ít còn gặp ai.

Loài cầm-thú, cỏ cây, sông núi.
Được chuyển qua cõi thượng đều xinh.
Thuần-dương, trái đất biến-hình.
Thuần-âm, trọn đủ linh-thiêng vô cùng.

Tạo-lập lại trong ngày hắc-ám.
Mẫu Đà-Hoa diệu-dụng pháp-huyền.
Di-Đà khai sáng ba miền.
Bốn mưới tám nguyện đến nay viên-thành.

Cơ phán-xét tới đây chấm dứt.
Đại-Phong-Thần đủ bảng kỳ ba.
Long-hoa Đại-Hội cộng đồng.
Định xong ngôi-vị muôn-loài ngươn-tân.

Địa-cầu mới số ghi hai bảy.
Chất đất thuần, thơm mãi mùi hoa.
Chơn-âm thống lãnh ngươn đầu.
Thời-kỳ định lại ba ngàn sáu trăm.

Hiệp tam-giáo, quy còn một đạo.
Lưu-truyền do bốn tám tổ-sư.
Khai nguyên tân-pháp nhiệm-mầu.
Lục-căn đã diệt, tu mau đắc thành.

Xã-hội mới, văn minh cao-độ.
Các nghành đều tiến-bộ khó lường.
Con người sống cảnh thần-tiên.
Thân-hình đẹp-đẽ, thong-minh vô-cùng.

Miệng cười mãi, tâm thần thơ-thới.
Nhờ mùi hoa nước miếng ngọt hoài.
Đất linh, học ít, biết nhiều.
Giống dân Nam-Hớn duyên ra nối truyền.

Hoa nước Việt, hoàn-cầu được hưởng.
Hai miền trên, Trung-Thượng cũng nhờ.
Là hoa thượng cổ không trồng.
Huyền-năng vô-lượng, hóa-sanh muôn loài.

Một tiểu-quốc thay hình đổi dạng.
Thành Đại-Bang chủ tể hoàn-cầu.
Thật là huyền bí nhiệm mầu.
Hậu Hồng-Bàng đó, Nhị-Đồ Tạo-công.

Đây báo trước việc vui việc khổ.
Nước tới trôn, nên lộ vài phần.
Mong cho đời đạo ân-cần.
Thân-tâm lo chỉnh để còn ngày sau.

Chớ ỷ- lại có người cứu-thế.
Rồi tha-hồ tự-tạo nghiệp sâu.
Cộng-trừ dưới điểm được tồn.
Hùm tha sấu bắt xác hồn ra tro.

Một kiếp sống bao nhiêu đau khổ.
Được làm người trên cả các loài.
Phải cho xứng-đáng là người.
Chớ đâu sanh sống chết như các loài.

Sao không biết tu-thân tích-đức.
Để đến gần Tiên-Phật Thánh-Thần.
Các Ngài sẽ hiện xuống trần.
Sống bên dân-chúng ở thời hậu-lai.

Phật, Tiên, Thánh, Người phàm đắc-đạo.
Mình là người đâu phải quỉ-ma.
Sao không cố tiến kịp đà.
Để cho sa-đọa dưới hầm lửa sâu.

Kỳ ba, lọc quan, dân, tu-sĩ.
Cùng xét chung tất cả các loài.
Màn đêm phủ đến nơi rồi.
Hạng nào cũng trễ, không xong trong ngày.

Hiểu lý chết, mới tường lý sống.
Nên biết rằng, chết-sống tương-quan.
Đó là nhân-quả luân-hồi.
Sống lành chết nhẹ, tái-sanh tiến hoài.

Đời với đạo tuy cùng tại-thế.
Chia hai đường phát-triển song hành.
Xác hồn phải được quân-bình.
Lo trap vật-chất tinh-thần muội-mê.

Các tôn-giáo phổ truyền tứ-ái.
Mà được từ, được ái mấy người.
Tu theo thế-kỷ hai mươi.
Đâu rồi hoàn đó, đạo-đời khó phân.

Tu kinh-kệ âm thinh sắc-tướng.
Tạo cho nhiều chùa-thất tượng-hình.
Đạo-mầu vô tướng, vô-thinh.
Tâm là Chơn-Phật, xác thân là Chùa.

Chạy tìm Đạo Đông-Tây khắp chốn.
Không biết rằng tại nước non nhà.
Phật Trời Tiên Thánh hội về.
Lập đời, lập đạo, pháp-mầu độ-sinh.

Ham mau đắc huyền-linh lạc-nẻo.
Lưới ma-vương giăng bủa đón mồi.
Giả-chơn, phân-biệt, không rồi.
Chín phần lọt rọ chỉ còn một thôi.

Trong vũ-trụ con người gồm đủ.
Cùng vạn-loài, một thể mà ra.
Tướng-hình tuy khác bề ngoài.
Đều do tứ-đại âm-dương tạo thành.

Tu phải biết tìm trong xác thể.
Chủ-Nhơn-Ông lồ lộ bên trong.
Linh-thiêng xinh đẹp nhiệm-mầu.
Chớ đâu ông Phật xi-măng ở Chùa.

Cứ tụng đọc sách kinh có chữ.
Không chịu tìm vô-tự chơn-kinh.
Kinh này không chữ không hình.
Tụng trì đắc-quả rõ thông Đất Trời.

Học ba mớ bề ngoài chưng-diện.
Rồi xúm tôn, ông nọ, ông kia.
Đạo-mầu không chức-tước nào.
Không cần chưng-diện huyền-vi vô-cùng.

Tướng ngoài-Phật, tâm trong yêu-quái.
Dắt chúng-sanh về với ma-vương.
Đạo trong thể-hiện Tâm-Vương.
Trừ tà giác-chúng ngoài thường không lo.

Tu hồn được tự-do xuất-nhập.
Lìa thân nhà, về viếng quê xưa.
Đó là cư sĩ xuất gia.
Chớ đâu, trốn mẹ, lìa cha vô chùa.

Người chân-chánh không phân tôn-giáo.
Giáo-chủ đều, cùng gốc xuống phàm.
Tuy dùng phương-tiện khác nhau.
Tín-đồ chia-rẽ, đạo-tâm một mà.

Đâu cần phải chùa to, Phật lớn.
ở chòi tranh, đạo vẫn quang-minh.
Tại-gia cũng chung quả lành.
Không thâu, không tởi của tiền thập-phương.

Học đạo-lý, học trong thể-xác.
Khỏi cần tìm lý-thuyết mông-mênh.
Phật xưa đâu có học kinh.
Làm câm, đui, điếc đạo-tâm mau thành.

Khi biết được trong thân đầy-đủ.
Màn vô-minh tan-vỡ lần lần.
Tâm-linh sáng-tỏ trong ngần.
Càn-khôn vạn-vật, trong tầm mắt ta.

Không cần học đạo, tâm vẫn biết.
Đủ phép-mầu diệu-dụng vô-biên.
Công-viên quả-mãn siêu-phàm.
Giúp cơ cứu-thế cuối ngày Hạ-Ngươn.

Đạo không nói vô hình im lặng.
Đức không khoe, cũng chẳng cần khen.
Hạnh-lành đầy-đủ âm-thầm.
Hóa-sanh dưỡng-dục, muôn loài vạn-linh.

Đã nhiều Vị xuống cơ ra sấm.
Khuyên dương-trần lo sửa thân-tâm.
Cũng cho biết việc xa gần.
Bị người chế-nhạo nói khùng nói điên.

Đây có nói e người không thích.
Nhưng lộ cho, biết chuyện hãi-hùng.
Của ngày tận-diệt cuối cùng.
Để đời nghĩ lại, ai khùng ai điên.

Khuyên bá-tánh, chăm lo ruộng-rẫy.
Sắm lưới chài, dò đẫy, đăng nò.
Tới mùa, thu lợi đầy kho.
Gia-đinh sung túc, quốc-gia phú-cường.

Đất sắp chết, như người hấp-hối.
Ngũ-tạng lìa, tứ-đại đảo-điên.
Năm-châu bốn-biển ngửa-nghiêng.
Muôn loài rối-loạn đâu nguyên sắc mầu.

Việc sẽ đến trong đời hiện-tại.
Chớ đâu xa trăm vạn năm sau.
Cơ trời như thể mộng mơ.
Ngủ đêm một giấc ngày mai đổi đời.

Qua năm Tý nhiều lời lắm chuyện.
Còn bây giờ, ít chuyện ít lời.
Nhắn cùng các điểm linh-căn.
Thuyền gần rời bến, ngủ quên trễ đò.

Nghe Phụng gáy Tây-Kỳ vang dội.
Bạch hổ gầm, rung-động rừng sâu.
Là ngày vinh-hiển bắt đầu.
Việt-Nam Phục-Nghiệp Tiên-Rồng rạng-danh.

Tháng 8 Canh Tuất 1970
HỒNG-QUANG ẤN DẤU

1 nhận xét:

  1. Năm châu bốn biển một nhà,
    Mà nước Việt ta lại là vinh quang?
    Xin hỏi tác giả câu này,
    Chỉ là lo dưỡng tâm tích đức an bình.
    (Chắc là thế, hihi)

    Trả lờiXóa